du lịch bắc từ liêm du lịch bắc từ liêm

Thăm quan chùa Hưng Khánh, phường Tây Tựu
Ngày đăng 30/09/2021 | 11:13  | Lượt xem: 1864

Chùa Hưng Khánh hay còn gọi là chùa Thôn Trung (hay chùa Đăm), thuộc phường Tây Tựu, quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội, chùa nằm cách trung tâm Hà Nội khoảng 20 km về phía Tây.

Chùa Hưng Khánh xưa kia là một ngôi chùa bề thế, nguy nga. Theo tấm bia cổ nhất hiện còn - bia “Bảo thiết hoa đăng kềnh bi” thì niên đại ra đời của ngôi chùa là năm 1541. Với cái tên ban đầu là chùa Bảo Sở và trong khoảng thời gian từ năm 1541 đến năm 1590 ngôi chùa đã đổi tên là Hưng Khánh Tự. Được khởi dựng sớm trên mảnh đất có bề dày lịch sử lâu đời. Chùa nằm trong cụm di tích nổi tiếng, bên cạnh là đình, miếu Tây Tựu với lễ hội Bơi Đăm nổi tiếng từ ngàn xưa.

Description: D:\TIN BAI\TIN BAI 2021\Ảnh Tây Tựu\Chùa Hưng Khánh\cong chùa Hưng Khánh.jpg
Cổng chùa Hưng Khánh, phường Tây Tựu

 

Chùa Hưng Khánh xây dựng lên để đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng thờ phật theo truyền thống người Việt của nhân dân trong vùng. Ngoài ra, Chùa còn là nơi tưởng nhớ các anh hùng văn hóa, anh hùng dân tộc đã có công trong lịch sử, thể hiện tinh thần uống nước nhớ nguồn của người dân quê hương Tây Tựu, là nơi giáo dục truyền thống cho các thế hệ.

Thời kỳ cận đại cũng trong cuộc kháng chiến chống Pháp sau này. Chính ngôi chùa đã chứng kiến bao sự đổi thay của vận mệnh dân tộc. Thời kỳ toàn quốc kháng chiến, chùa mang danh là chùa kháng chiến. Lịch sử lưu lại có kể vị thượng tọa Nguyễn Đăng Năm bấy giờ làm chủ tịch Hội phật giáo cứu quốc của Huyện đã vận động nhân dân tổ chức hoạt động cách mạng, nuôi giấu cán bộ tại Chùa. Sau bị lộ nhà sư cùng một cán bộ của xã đã bị giặc Pháp bắt được và bắn chết. Thượng Tọa Nguyễn Đăng Năm đã được Nhà nước phong tặng danh hiệu liệt sĩ và thưởng huân chương kháng chiến. Công danh và sự nghiệp của cụ đã được lưu trong tấm bia tưởng niệm của xã Tây Tựu (nay là phường Tây Tựu). Đến thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, chùa còn là nơi chứa các quân trang, quân dụng của quân đội.

Chùa Hưng Khánh tọa lạc trên một khu đất rộng, thoáng trong khu vực cư trú của làng. Chùa ẩn mình dưới những tán lá cổ thụ xum xuê, cùng nhiều loại cây lưu niệm rợp mát. Chùa quay hướng Đông Nam trong khuôn viên rộng, phía trước có giếng xây, bên phải là tượng Quan âm được tọa lạc cỡ lớn dạng đứng và những tháp cao. Các công trình kiến trúc tuy mới được trùng tu lại trong những năm đầu thế kỷ 20 (lần tu sửa cuối cùng vào năm 1991), chùa vẫn giữ được một nét của kiến trúc cổ truyền.

Tổng thể mặt bằng kiến trúc của chùa được cấu thành bởi 3 bộ phận: chùa chính, nhà tổ và nhà mẫu. Xa xưa chùa có tam quan to đẹp, song đến nay chỉ còn lại bốn trụ vuông đắp lửng, mặt trước đắp nổi hình hai voi, mặt sau trang trí tùng, hạc. Sau tam quan là một tòa nhà vuông nhỏ hai tầng tám mái cong dựng bằng bê tông gồm bốn cột tròn, dưới các chân cột trang trí uốn khúc, xung quanh là những cánh sen cách điệu... Một pho tượng Quan âm bằng thạch cao trong tư thế đứng trên tòa sen được đặt trên 4 đầu quỷ. Qua một cổng phụ và khu vườn rộng có nhiều cây hoa, cây cảnh, sân được lát gạch Bát Tràng cổ, bước lên bậc tam cấp dẫn vào chùa chính.

Tòa Tiền Đường hiện nay thực chất là Thượng Điện xưa kia, gồm ba gian dọc, một dĩ, xây theo kiểu tường hồi bít đốc, mái lợp ngói ta, hiên được nới rộng 3m, bên trên đắp nổi 3 chữ “Hưng Khánh Tự”. Kết cấu khung tòa Thượng Điện được làm theo kiểu vì chồng rường, gồm bốn con rường kê trên nhau qua các đấu vuông thót đáy, mỏng, thấp. Các con rường ngắn dần về phía thượng lương để con rường cuối đội thượng lương qua một đấu nhỏ. Sát với câu đầu là một rường cụt, hai đầu rường đỡ hoành cũng tỳ lên một đấu vuông để tạo sự vững chắc và khỏe khoắn cho bộ khung gỗ.Trên mỗi bộ vì được đỡ bằng 4 cột vuông bằng bê tông, 3 mặt các cột được đắp các câu đối bằng vữa vôi, khoảng cách giữa các cột là 2m. Phía trước được trổ 3 cửa. Khoảng cách giữa các cột xây dựng những bệ cao làm nơi đặt tượng thờ.

Nhà Mẫu nằm ngay sát bên trái Thượng Điện, gồm 3 gian, dạng trốn cột, xây theo kiểu tường bít đốc, mái lợp ngói ta, nền gạch vuông đỏ. Khoảng cách các gian chia đều nhau, mặt trước trổ 3 cửa, phía trên cửa làm kiểu vòm cuốn, dưới là các cánh chạm hình tứ quý, hoa lá cách điệu. Bộ khung được làm đơn giản, kiểu vì quá giang, bào trơn đóng bén. Sát tường phía trong xây các bệ thờ mẫu. Chính giữa là Tam tòa thánh mẫu, bên dưới là Cửu Thiên Huyền Nữ ngồi trên ngai, tay cầm quạt, nét mặt tươi vui gần gũi với đời thường hai bên co các quan hoàng, các cô, các cậu. Các tượng mẫu đều được nảy sinh từ tín ngưỡng dân gian nên mang nhiều yếu tố dân giã. Đây là những tượng biểu hiện lòng sùng kính của con người, nên được làm rất kỹ và tỉ mỉ. Hai gian bên thờ chúa Sơn Lâm và đức Trần triều. Dưới hầm gian giữa được thờ các quan ngũ hổ.

Nhà tổ nằm sát nhà mẫu được bố cục theo dạng chữ “Nhị” gồm năm gian nhà ngoài và năm gian trong. Nhà ngoài xây theo kiểu tường hồi bít đốc, mái ngói tây, nền lát gạch Bát Tràng cổ, hai gian hồi treo chuông và khánh cỡ lớn. Kết cấu các vì kèo đơn giản kiểu vì quá giang, tựa lực lên các xà bằng bê tông, trên để trơn không trang trí. Nhà thoáng, rộng theo kiểu trốn cột, chỉ có 6 trụ vuồn để nối với nhà trong. Gian giữa đặt một nhang án gỗ thờ Phật Tam Thế và Thích Ca sơ sinh. Hai bên thành của nhang án chạm bong các rồng yên ngựa, rồng mình uốn nhiều khúc, đuôi cong gãy về phía sau, mắt lồi và các hình lá đề, mây cuộn, hoa văn hình học… Trên mỗi ô lại chạm thủng, chạm lộng các mặt hổ phù, rồng vân vũ và rồng lá, dưới là những đường viền cánh sen cách điệu. Các nét chạm chỉ nhỏ li ti, song rất khéo léo và mang tính nghệ thuật cao của cuối thế kỷ 18. Nhà trong gồm năm gian giống như nhà ngoài, phần kiến trúc có kết cấu đơn giản kiểu vì quá giang trốn cột. Hiên có sáu trụ vuông, nền cao hơn nhà ngoài 45cm. Mặt nền lát gạch hoa mới và gách Bát Tràng cổ, phía trước trổ các cửa kiểu vòm uốn không cánh, trên cao là một y môn bằng gỗ sơn son thiếp vàng chạm lông một giàn hoa mai, chim trĩ dưới những vòm lá cách điệu. Hai bên được gắn nhiều đôi câu đối và đại tự.

Trải qua nhiều biến động của lịch sử, đặc biệt qua các cuộc kháng chiến, ngôi chùa đã bị hủy hoại hoàn toàn. Phần lớn các di vật đều bị đốt cháy hoặc thất lạc. Tuy vậy, hiện nay trong chùa còn bảo lưu được nhiều di vật quý có giá trị về mặt văn hóa, lịch sử và nghệ thuật góp phần không nhỏ trong việc làm giàu thêm nền nghệ thuật, văn hóa cổ cũng như trong việc nghiên cứu lịch sử đất nước, lịch sử làng xã và loại hình văn hóa dân gian. Các di vật, cổ vật còn được lưu lại như: 35 pho tượng (gồm tượng phật, tượng tổ, tượng mẫu), 01 nhang án gỗ mang phong cách nghệ thuật thời Lê (thế kỷ18), 14 bức đại tự, 16 câu đối, 06 bia đá, 01 khánh cỡ lớn đúc năm Bính Thìn niên hiệu Cảnh Thịnh 4 (1796), 02 chuông đồng, 01 đôi cây đèn và nhiều tượng thờ tự khác…

Với những giá trị lịch sử cách mạng về lịch sử văn hóa, di tích chùa Hưng Khánh đã được Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng di tích lịch sử văn hóa năm 2000.

Một số hình ảnh các di vật còn lưu giữ lại tại di tích

Description: D:\TIN BAI\TIN BAI 2021\Ảnh Tây Tựu\z2801920136437_6f03e8a9c223b81f98e3834002acfbe3.jpg
Bia trụ dựng năm Bảo Thái 2 năm 1723

 

Description: D:\TIN BAI\TIN BAI 2021\Ảnh Tây Tựu\z2801922595225_e88e598a4025b9c455200487b2022dec.jpg
Chuông đồng đúc năm Bính Thìn, niên hiệu Cảnh Thịnh 4 (1796)

Description: D:\TIN BAI\TIN BAI 2021\Ảnh Tây Tựu\z2801920550424_2d4e4554cd48872589f4c4ac490db445.jpg

Description: D:\TIN BAI\TIN BAI 2021\Ảnh Tây Tựu\z2801922093175_18b848d4bbd507ce502cbb74a5e618ed.jpg
Các Đại tự tại chùa chính

 

Description: D:\TIN BAI\TIN BAI 2021\Ảnh Tây Tựu\z2801921006742_19b346162e1cb9fc7da8cb6b6990c2a9.jpg
Khánh đồng đúc năm Bính Thìn, niên hiệu Cảnh Thịnh 4(1796)

 

Description: D:\TIN BAI\TIN BAI 2021\Ảnh Tây Tựu\z2801921644383_2c1f65434d60327b0e3130f5a3454158.jpg
Nhang án, nghệ thuật chạm khắc thế kỷ 18

 

Đỗ Liễu