du lịch bắc từ liêm du lịch bắc từ liêm

Linh thiêng chùa Đình Quán
Ngày đăng 20/07/2021 | 08:15  | Lượt xem: 4988

Đình Quán là một làng Việt cổ có bề dày lịch sử hàng ngàn năm, được thể hiện qua các di chỉ khảo cổ học được phát hiện quanh khu vực như: di chỉ Ngọa Long với các hiện vật có niên đại cách ngày nay khoảng 2000 năm và các di tích lịch sử văn hóa như đình, chùa, miếu… được xây dựng khá sớm. Trong đó, không thể không nhắc tới một ngôi chùa cổ kính, linh thiêng - Chùa Đình Quán. Chùa Đình Quán, nay thuộc tổ dân phố số 4, phường Phúc Diễn, quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội. Đây là ngôi chùa nằm ở phía Tây Thành phố, cách trung tâm Thủ đô khoảng 12km.

Chùa Đình Quán có tên cũ là “Bà Bông tự”, sau đổi thành “Phúc Quang tự”, các công trình kiến trúc của chùa bố cục hài hòa trong khuôn viên rộng, xung quanh có tường bao bọc. Chùa được xây dựng theo kiểu chữ “Đinh”, bao gồm: tam quan, tòa tam bảo (chùa chính), tiếp đến là hai dãy nhà giải vũ, nhà thờ Tổ và nhà Mẫu.

       Cổng chùa Đình Quán, phường Phúc Diễn, quận Bắc Từ Liêm

   

Cổng chùa được xây kiểu bỏ trụ, ngoài cùng là hai trụ lớn, kiểu trụ lồng đèn, đỉnh mỗi trụ đắp nổi hình bốn con chim phượng, đuôi chụm vào nhau, đầu quay bốn hướng tạo thành hình trái dành cách điệu. Qua cổng tam quan là khoảng vườn rộng bao quanh các công trình kiến trúc chính của Chùa.

Chùa chính bao gồm tiền đường và thượng điện. Nhà tiền đường năm gian xây kiểu tường hồi bít đốc tay gai, mái lợp ngói mũi hài cổ, bờ nóc đắp kiểu bờ đinh, giữa bờ nóc đắp nổi bình nước cam lộ, phía dưới trổ hàng hoa chanh chạy suốt bờ đinh, giữa bờ đinh đắp ba đại tự, đề ba chữ Hán vuông vức “Phúc Quang tự”. Hai đốc mái đắp hình rồng miệng ngậm bờ nóc, đuôi rồng uốn cong. Bên trong các vì kèo đỡ mái kết cấu theo kiểu vì kèo cầu quá giang trốn hàng cột phía trước. Mái phân thượng tam hạ tứ, nền nhà lát gạch vuông. Tại tòa tiền đường đặt các bộ tượng Đức Ông, Thánh Tăng, Hộ Pháp giống như cách bài trí phổ biến của các ngôi chùa khác ở miền Bắc nước ta.

Nối liền với tiền đường là tòa thượng điện, gồm các nếp nhà bốn gian chạy dọc phía sau tạo thành hình chữ “Đinh”. Nhà được xây tường hồi bít đốc, các vì kèo đỡ mái làm kiểu kèo cầu quá giang vỉ ruồi mái phân thượng tam hạ tứ. Mái lợp ngói mũi hài cổ, đốc mái đắp hình rồng ngậm miệng bờ nóc, trên dải tường hậu đắp các trụ nhỏ, đỉnh trụ đắp hình chim phượng và các bình nước nhỏ. Phía trong tòa thượng điện là hệ thống năm lớp tượng được bài trí mang đặc trưng của Phật giáo Đại thừa Bắc tông, tuân thủ theo quy định nghiêm ngặt của đạo Phật. Hàng trên cùng cao nhất của phật điện là bộ tượng Tam thế Phật thường trụ diệu pháp thân, Phật của quá khứ, hiện tại và vị lai. Lớp thứ hai là bộ tượng Di Đà Tam Tôn, chính giữa là pho tượng A Di Đà, hai bên là tượng Quan thế âm và Đại thế chí bồ tát. Lớp thứ ba là tượng Quan âm Chuẩn Đề, hai bên là tượng văn Thù Bồ Tát và tượng Phổ Hiền Bồ Tát. Lớp tượng ngoài cùng của Phật điện là tòa Cửu Long và tượng Thích Ca sơ sinh. Tượng Thích ca đứng trên tòa sen ba lớp cánh, tay trái chỉ lên trời, tay phải chỉ xuống đất. Tòa Cửu Long trang trí chín hình rồng phun nước tắm cho đức Phật lúc ngài mới ra đời, điểm xuyết chín hình rồng là 18 pho tượng Phật được sắp xếp theo thứ tự như tòa Tam bảo thu nhỏ. Sát tường hậu thượng điện bên phải là bệ tượng Quan Âm Tọa Sơn, bên trái là tượng Quan Âm Tống Tử (hay còn gọi là tượng Quan Âm Thị kính). Các pho tượng Phật đều thuộc phong cách nghệ thuật thế kỷ thứ XVIII-XIX. Phía sau Tam bảo, qua một khoảng sân gạch khá rộng là nhà Tổ, nhà Mẫu và dãy nhà Giải vũ.

Tam bảo chùa Đình Quán, phường Phúc Diễn

Hiện nay, chùa còn lưu giữ nhiều hiện vật quý, có giá trị về lịch sử và nghệ thuật điêu khắc, đặc biệt 3 pho tượng Phật, 13 tấm bia đá, các hoành phi câu đối… trong đó tiêu biểu là quả chuông lớn “Bà Bông tự”, đúc năm Gia Long thứ 18 (1819); ba tấm bia ghi việc trùng tu chùa trong các niên hiệu Vua: Quang Hưng (1578-1599), Chính Hòa (1680-1705), Gia Long (1802-1819). Đặc biệt, có bài văn bia của Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan (1527-1613). Đây là nguồn tư liệu quý góp phần nghiên cứu, tìm hiểu lịch sử, phong tục tập quán tốt đẹp của nhân dân địa phương.

 Trong các bia trùng tu có bia ghi: “…Chùa được xây dựng từ thời Trần”; có bia ghi “…chùa là đại danh lam…”. Có những chứng tích để giúp ta có thể khẳng định đây là ngôi chùa rất cổ. Đó là: Đầu tháng 3 năm 1984, cách chùa chừng vài chục mét về phía Bắc, người đào làng ao đã tìm thấy ngôi mộ cổ trong quan ngoài quách. Toàn bộ quan tài được phủ một lớp than dày 40cm. Đây là nét đặc biệt trong cấu trúc mộ quách gỗ quý được biết xưa nay. Đồ tùy táng trong mộ chủ yếu là đồ trang sức: một vòng chuỗi làm bằng đá mã não được trau chuốt tinh vi đẹp mắt; sáu vòng tay, một hộp thuốc có nắp đậy, một chiếc trâm cài đầu và một số cúc áo bằng kim loại màu vàng…Với tư liệu hiểu biết trên dưới mười ngôi mộ cổ cùng loại được khai quật và nghiên cứu ở Việt Nam thì có thể khẳng định ngôi mộ cổ ở Đình Quán có niên đại thuộc thời Trần (thế kỷ XIII-XIV). Lần đầu tiên ngôi mộ thuộc thời Trần được biết đến ở Hà Nội. Người ta đoán rằng, có một nàng công chúa con vua Trần đã ra xây dựng ngôi chùa này rồi tu ở đó đến khi mất.

Đến khoảng thời Lê Sơ (1482-1533) có một bà vãi quê ở làng Bông Cởi, huyện Thanh Oai, Hà Nội (Hà Tây cũ) lên chùa ở và bỏ công đức ra tu sửa, mua ba mẫu ruộng hậu vào chùa và ở chùa cho đến khi mất. Nhân dân địa phương nhớ ơn bà, đổi tên chùa là Bà Bông, tạc tượng bà thờ phụng ở phía Bắc trong Tam bảo. Đến cuối thế kỷ XVI, chùa lại được trùng tu, khởi công năm 1588, khánh thành năm 1592, mời Trạng Bùng viết văn bia, đã ghi tên chùa là Bà Bông. Đến đời Gia Long (1819), khi đúc quả chuông cổ còn lại đến nay cũng ghi là chùa Bà Bông. Văn bia của Phùng Khắc Khoan đã nếu lên vị trí của ngôi chùa, về triết lý đạo Phật, về tam giáo đồng nguyên và biểu dương những người đã giúp góp tiền của làm công việc công đức. Sau đây là trích bản dịch văn bia:

“Bài ký trên bia ghi việc tu tạo chùa Bà Bông, thờ Phật ở Chùa. Việc đó đã có từ lâu, nay chùa Bà Bong làn nơi danh thắng vào bậc nhất xã Phú Diễn trong huyện (Từ Liêm). Sửa chữa xây dựng lại tất phải đợi loại cây đàn lớn…(đoạn này chi tên 10 người đứng lên hưng công)…Nhà sư trụ trì chùa là Lê Pháp Đăng, tự Mậu Hóa, quê ở huyện Quảng Xương, phủ Tĩnh Gia, Thừa Tuyên, Thanh Hóa, xuất gia theo Đạo Lớn và mọi người lớn nhỏ trong thông Đình Quán, các vị tín thí này cùng nhau để tâm làm điều thiện, mở rộng lòng thiện, tu sửa chùa vào tháng giêng năm Mậu Tý (1529), chùa được tu sửa các phòng trong ngoài, trên dưới, tô lại tượng Phật…các đồ tế lễ. Nay việc sửa chữa đã hoàn thành, các vị lại mua đặt ruộng đất, ao hồ hiến vào làm đất Tam bảo, nhờ ta viết ra để mọi người biết việc này…”.

Với những giá trị về kiến trúc và lịch sử, chùa Đình Quán đã được Nhà nước công nhận là di tích lịch sử văn hóa ngày 13/12/1995 và được Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật ngày 27/8/1996.

Trải qua nhiều thế kỷ, chùa bị xuống cấp nghiêm trọng. Trong nhiều năm qua chính quyền địa phương cùng nhà chùa, nhân dân địa phương và quý khách thập phương đã đầu tư kinh phí trùng tu, sửa chữa Tam bảo, nhà Mẫu, Tam quan, dựng lại nhà Tổ, xây thêm nhà bia, làm mới nhà khách… Năm 2018, UBND quận Bắc Từ Liêm đã tiếp tục trùng tu Tam bảo của chùa từ nguồn ngân sách Quận và hiện nay khu vực Thiền đường cũng đang được tu bổ tôn tạo từ nguồn kinh phí xã hội hóa. Chính vì lý do đó mà chùa Đình Quán ngày càng khang trang, đẹp đẽ, mãi mãi tồn tại cùng thời gian và lịch sử, xứng đáng là một ngôi chùa cổ đẹp nổi tiếng của vùng ven sông Nhị.

Ngày nay, chùa Đình Quán trở thành điểm đến của nhiều Phật tử. Bên cạnh việc chiêm bái, lễ Phật, nhiều người tìm đến chùa để tham gia vào các hoạt động thiện nguyện do nhà chùa tổ chức. Hàng năm, cứ mỗi dịp đầu tháng bảy, chùa Đình Quán lại sắp xếp những “phòng trọ” miễn phí, mở rộng đón những thí sinh và người thân trở về Hà Nội dự thi Đại học. Vì lẽ đó, từ lâu cái tên chùa Đình Quán đã trở nên quen thuộc, gần gũi với nhân dân địa phương và du khách thập phương xa gần. Đến với chùa Đình Quán là tìm đến chốn thanh tịnh, xua tan đi mọi mệt mỏi, lo toan của cuộc sống và khám phá những nét đẹp về văn hóa, truyền thống nơi đây./.

Liễu Đỗ