Tin nổi bật
Bắc Từ Liêm nằm ở cửa ngõ phía tây bắc Hà Nội, gắn với vùng hữu ngạn sông Hồng và sông Nhuệ. Là vùng đất có bề dày lịch sử hình thành và phát triển hàng nghìn năm, nơi sinh thành của nhiều danh nhân có tài, có đức và có nhiều cống hiến lớn cho sự nghiệp đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc, nơi có nhiều làng nghề truyền thống, nhiều tập tục, lễ hội mang tính đặc trưng của 1 vùng đã từng nổi tiếng của đất Thăng Long ngàn năm văn hiến.
Ngay sau khi thực hiện Nghị quyết 132 của Chính phủ về việc điều chỉnh địa giới hành chính huyện Từ Liêm để thành lập 02 Quận và 23 phường trực thuộc Thành phố Hà Nội. Trên địa bàn Quận Bắc Từ Liêm hiện có tổng số 133 di tích lịch sử văn hóa, trong đó 59 di tích được nhà nước xếp hạng di tích lịch sử văn hóa với 23 đình, 25 chùa, 12 đền, 12 miếu, 02 phủ, 02 điếm và 57 nhà thờ họ. Ngoài ra trên địa bàn quận có 27 lễ hội truyền thống, 27 di tích Cách mạng kháng chiến và di tích lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong đó 11 di tích đã gắn biển. Đồng thời, nơi đây còn lưu giữ nhiều loại hình nghệ thuật dân tộc cổ truyền đặc sắc. Các di tích lịch sử văn hoá, di tích cách mạng kháng chiến và các lễ hội truyền thống của địa phương thực sự gắn bó với cuộc sống và người dân nơi đây, đã trở thành một loại hình sinh hoạt văn hoá tinh thần, một phong tục đẹp, góp phần vào việc giữ gìn tinh hoa văn hoá dân tộc và truyền thống văn hoá của nhân dân quận Bắc Từ Liêm nói riêng và nhân dân Thủ đô Hà Nội nói chung.
II. Một số di tích lịch sử văn hóa tiêu biểu:
1. Đình Chèm:
Thuộc phường Thụy Phương, theo thần phả đình Chèm thờ Đức thánh Chèm là Lý Nhân hay Lý Ông Trọng - Nhà ngoại giao đầu tiên của dân tộc Việt Nam. Lý Ông Trọng là người chí dũng siêu quần, thông minh xuất chúng có tài ngang trời dọc đất; là người có công giúp Hùng Duệ Vương dẹp yên các loại giặc hay quấy nhiễu biên giới phái Tây và phía nam khiến chúng sợ không dám xâm phạm bờ cõi nước Văn Lang. Sau đó Ngài còn giúp Thục Phán An Dương Vương đánh bại quận xâm lược nhà Tần.
Đình Chèm là công trình kiến trúc có kết cấu kiểu nội Công ngoại Quốc, mang dáng dấp của kiến trúc cung đình, tọa lạc trên khuôn viên đất thoáng đãng. Hiện đình Chèm còn lưu giữ cuốn sách chữ hán ghi các đạo sắc, lễ nghi, văn tế, 03 đạo sắc phong của các vua Nguyễn phong thần cho Lý Ông Trọng; 04 tấm bia đá thời lê Cảnh Hưng và thời Nguyễn; 02 chuông đồng đúc thời Nguyễn. Đặc biệt là hệ thống máng đồng là di vật độc đáo hiếm có ở các di tích khác có niên đại thời Lê, tây Sơn và Nguyễn.
Lễ hội đình Chèm ra đời theo dòng chảy của lễ hội cổ truyền Việt nam, chưa có sách nào ghi lại và cũng không ai biết lễ hội đình Chèm có từ bao giờ nhưng từ lâu câu ca: “Thứ nhất là hội Cổ Loa. Thứ nhì Hội Gióng thứ ba hội Chèm” đã in đậm trong tâm tư tình cảm của người dân Hà Nội nói chung, nhân quận Quận bắc Từ Liêm và nhân dân phường Thụy Phương nói chung. Lễ hội đình Chèm được tổ chức từ ngày 14 đến hết ngày 16 tháng 5 (âm lịch). Lễ hội đình Chèm được tổ chức để tưởng nhớ ngày thắng trận khải hoàn mở hội mừng công và làm lễ cầu siêu cho các tướng sỹ của Đức thánh Lý Ông Trọng đã hi sinh trong cuộc kháng chiến chống quận xâm lược phương Bắc để bảo vệ nền độc lập của nước nhà. Nhưng sâu sa hơn có lẽ nó bắt nguồn từ nghi lễ cầu mưa thuận, gió hòa cho một mùa bội thu của cư dân nông nghiệp đồng bằng sông Hồng thủa xa xưa.
Ngày nay, việc tổ chức lễ hội truyền thống đình Chèm nhằm khơi dậy niềm tự hào dân tộc, tôn vinh những giá trị văn hóa đặc sắc của miền quê ngàn năm văn hiến. Qua đó góp phần giáo dục truyền thống lịch sử cách mạng và tình yêu quê hương đất nước đối với các tầng lớp nhân dân dặc biệt là thế hệ trẻ.
2. Làng cổ Đông Ngạc:
Đông Ngạc là một làng Việt cổ nổi tiếng của Thăng Long bởi có nhiều người đỗ đạt làm quan. Với 25 người đỗ Tiến sĩ qua các thời kì lịch sử. Cả 5 dòng họ lớn trong làng - họ tộc nào cũng có người đỗ đại khoa như dòng họ Phạm, họ Phan, họ Đỗ… Với công lao đóng góp trong nhiều lĩnh vực với quê hương, đất nước nên nhiều người trong số họ đã trở thành danh nhân của dân tộc, thành những tấm gương về nhân cách, có ảnh hưởng tích cực đến nhiều thế hệ trí thức Việt Nam như cụ Phan Phu Tiên, cụ Đỗ Thế Giai, Hoàng Tăng Bí, Phan Văn Trường, Hoàng Minh Giám…Hiếu học và có nhiều hình thức khuyến học từ lâu đã trở thành truyền thống của Đông Ngạc.
Làng Đông Ngạc có nhiều Lễ hội truyền thống như: Lễ hội đình Đông Ngạc, đình Nhật Tảo, đình Liên Ngạc…đó là những hoạt động văn hóa dân tộc độc đáo theo nghi thức cung đình trang trọng. Bên cạnh đó, văn hóa ẩm thực đã được lưu truyền trong dân gian đó là “Giò Chèm, Nem Vẽ” cùng một số nghề đã một thời nổi tiếng.
Đông Ngạc còn có những di tích cách mạng kháng chiến gắn liền với cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp gành độc lập của đất nước và Hà Nội như chùa Tư Khánh là Trụ sở Ủy ban Liên Việt quân Trấn Tây là nơi hội họp và nuôi giấu cán bộ lão thành cách mạng…Bên cạnh đó, Đông Ngạc còn lưu giữ được những hương ước, quy ước của làng xã, gia phả của các dòng họ từ xa xưa để lại cho thế hệ sau bảo tồn và phát huy. Trong những năm qua, Đông Ngạc đã trở thành một trong các điểm thu hút khách thăm quan, nghiên cứu tìm hiểu và học tập.
* Một số công trình văn hóa, di sản văn hóa, Lễ hội tiêu biểu của phường Đông Ngạc:
Trên địa bàn phường có 32 di tích bao gồm đình, đền, chùa, văn chỉ, miếu, di tích cách mạng kháng chiến, nhà thờ họ và khá nhiều kiến trúc nhà cổ. Phần lớn di tích thuộc Tổ dân phố Đông Ngạc, đó là chưa kể hệ thống cổng làng, cổng xóm với những con đường nhỏ lát gạch nghiêng cổ kính. Giá trị văn hóa phi vật thể ở nơi đây, ngoài những lễ hội truyền thống diễn ra ở các di tích, là những nghề truyền thống mà ít nhiều còn lưu truyền lại đến ngày nay, như nghề nặn nồi đất, nghề làm quang gánh, làm giò, làm nem…
Làng Đông Ngạc hiện còn trên 100 ngôi nhà cổ có thời gian xây dựng trên 100 năm, trong đó có nhiều ngôi nhà gỗ được đục chạm công phu, bảo tồn nguyên trạng, còn có những ngôi nhà thờ cổ được dựng từ mấy thế kỷ trước.
- Nhà thờ cụ Đỗ Thế Giai, một ông quan thời vua Lê chúa Trịnh, là nơi còn giữ được khá nhiều những di vật có giá trị, có rùa, hạc, bia đá, tượng ông phỗng, giá roi, hương án... Được biết ngôi nhà 5 gian được dựng bởi các loại gỗ quý như lim, xoan rừng..., kiến trúc mang đậm phong cách nhà Lê mà tiêu biểu là những hoa văn trang trí trên rèm cửa mà đến bây giờ hầu như vẫn còn nguyên vẹn.
- Đình Đông Ngạc: Là một ngôi đình có quy mô to lớn, nhiều hạng mục với các thành phần kiến trúc cổ kính và chuẩn mực đã tồn tại từ 500 năm nay. Đình được xây dựng trên một thế đất cao ráo, đắc địa ở phía Bắc làng, sát với đê sông Hồng. Tương truyền, thời xưa đình vốn là một toà miếu cổ có từ thời Đường vào thế kỷ 7. Năm 1635, dân làng đã cải tạo và mở rộng thành đình để thờ thành hoàng làng. Đình thờ 3 vị thần tượng trưng cho cả Thiên - Địa - Nhân. Ngoài ra Đình còn thờ tiến sĩ Phạm Quang Dung là người làng có công đứng ra trùng tu đình năm 1718 và ông Phạm Thọ Lý, người đã cung tiến đất làm đình lần đầu năm 1635. Trong đình hiện còn lưu giữ nhiều hiện vật quí, có giá trị như: 01 tấm bia thủy tạ, 03 bia trùng tu, 01 bia hậu thần, 01 bia Dương Hòa thứ nhất (1635), 01 quả chuông niên hiệu Minh Mệnh thứ 13 (1832), 45 đạo sắc phong…Bộ di vật đặc sắc nhất của đình là 48 bức tranh sơn dầu màu trên ván gỗ thời Hậu Lê.
Đình Đông Ngạc nằm trong số ít những ngôi đình cổ của Thủ đô Hà Nội hiện còn bảo lưu được khá nguyên vẹn bố cục, cảnh quan kiến trúc và các di vật quý giá.
Đình Đông Ngạc được Bộ Văn hóa Thông tin xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia năm 1993.
- Chùa Tư Khánh: Là một ngôi chùa cổ có niên đại xây dựng khá sớm từ thời Lê Thần Tông (1653 - 1658) ghi rõ công đức ông Nguyễn Phúc Luân và bà Trần Thị Ngọc Luân được chọn là hậu Phật của chùa. Kiến trúc chùa theo kiểu “nội đinh ngoại quốc”. Hiện nay ngôi chùa con lưu giữ được một số di vật có giá trị như quả chuông nặng 750kg treo ở gác chuông có niên đại Gia Long 16 (1817) và hai quả chuông nhỏ hơn cũng được đúc vào thời Nguyễn. Đặc biệt, hiện nay chùa còn lưu giữ 50 pho tượng tròn, được bài trí trong các kiến trúc chính của chùa.
Chùa Tư Khánh là ngôi chùa duy nhất ở Thành phố Hà Nội được phong tặng danh hiệu “Toàn gia kháng chiến” trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1946 - 1954).
Chùa Tư Khánh được Bộ Văn hóa Thông tin xếp hạng di tích lịch sử, kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia năm 1993.
- Đình Nhật Tảo: Được xây dựng từ thế kỷ thứ 7. Xây dựng theo kiểu nội công, ngoại quốc trong một không gian rộng. Đình thờ Thiên thần, Thổ thần, Lê Khôi và Trần Nguyên Hãn. Di vật còn lại: Quả chuông thời Ngô Quyền 938, các bức hoành phi, câu đối, tượng thờ, bia đá…rất phong phú.
- Về lễ hội: Lễ hội đình Đông Ngạc, đình Nhật Tảo là một trong những lễ hội lớn, đặc sắc được tổ chức vào các ngày 9,10,11 tháng 2 âm lịch hàng năm. Về nội dung Tế, lễ theo nghi thức cung đình, Tế Nam giao, Tế dâng đăng hương, dâng Tam Tuần Tửu, rước nước, rước văn ….
Trò chơi Hội gồm có: Cờ, chọi gà, bịt mắt bắt dê, bắt vịt, đốt cây bông, cây đu…Đặc biệt là tục chèo hát (một hình thức hát đối) độc đáo.
3. Đình Đăm:
Thuộc phường Tây Tựu, đình thờ tướng Đào Trường (tức thánh Bạch Hạc Tam Giang) là người có tài kinh bang võ nghệ cao cường, được tiến cử làm thổ lệnh trường, cai quản quận Sơn Nam.
Đình Tây Tựu là công trình kiến trúc cổ kính được xây dựng từ thời Lê, do bà Nguyễn Thị Tính, một người phụ nữ tài sắc của quê hương đã trở thành cung phi thứ 8 (vợ vua Lê Thế Tông), cho dân lấy gỗ, kén thợ giỏi ở kinh đô về Tây Tựu xây dựng đình làng.
Đình Đăm toạ lạc trên khu đất cao ráo, thoáng đãng giữa tổ dân phố Trung phường Tây Tựu, hướng chính của đình quay về phía Tây. Đình Đăm có một địa thế rất lý tưởng, trước mặt là cánh đồng rộng trông sang xứ Đoài, sau lưng là đầm nước trũng gọi là Thuỷ ác, bên phải có ngọn núi Đống Chay chầu về, bên trái có dòng sông Nhuệ uốn khúc bao lấy nhà Thuỷ toạ rồi lượn xuống phía Đông Nam tạo cho đình có thế "Tả thanh long, hữu bạch hổ", theo quan niệm truyền thống đây là ngôi đình có vị thế đế vương, là khởi nguồn cho sự thịnh đạt phát triển của làng quê, là niềm đất tụ linh tích phúc cho nhân khang vật phú.
Đình Đăm không chỉ là di tích lịch sử văn hóa mà còn là một trong những di tích cách mạng kháng chiến tiêu biểu của Quận Bắc Từ Liêm.
Hội Bơi Đăm truyền thống là một trong những lễ hội đặc sắc nức tiếng đã đi nhắc đến trong câu ca dao: “Bơi Đăm, rước Giá, hội Thầy” hay câu ca “Làng Đăm có hội đua thuyền. Có lò đánh vật có miền trồng hoa”. Hội Bơi Đăm được tổ chức từ ngày mùng 9 đến 11 tháng Ba (âm lịch).
Các hoạt động lễ hội như một bảo tàng sống về văn hoá đặc thù của địa phương, của dân tộc đó được lưu truyền, kế thừa qua nhiều thế kỷ. Lễ hội truyền thống hàng năm là sự tái hiện không gian văn hoá và chiến thuật luyện tập và tiến công bằng thuỷ quân của tướng Đào Trường thời Hùng Duệ Vương.
Lễ hội truyền thống là loại hình sinh hoạt văn hoá, là sản phẩm tinh thần của người dân được hình thành và phát triển trong tiến trình của lịch sử. Kế thừa và phát huy truyền thống đạo lý dân tộc, Lễ hội làng Đăm là sự kiện quan trọng của địa phương nhằm tôn vinh hình tượng thiêng liêng và tỏ lòng tri ân công đức đối với vị tướng lĩnh anh hùng - Đức Thánh Bạch Hạc Tam Giang.
Đây cũng là dịp để những người con của quê hương tìm về nguồn cội và du khách xa gần đến với Tây Tựu, khám phá những nét đẹp truyền thống của đất và con người nơi đây.
4. Đình Thượng Cát:
Thuộc phường Thường Cát, là một trong di tích tiêu biểu của quận. Đình thờ tướng Quách Lãng, Đinh Bạch Nương, Đinh Tĩnh Nương. Trong đình có nhiều tự khí cổ đáng quý. Trước hết là bốn cỗ kiệu chạm và sơn son thếp vàng rực rỡ. Trong đình còn lưu giữ được 33 đạo sắc phong của các vua Lê từ niên hiệu Vĩnh Tộ (1621) đến Cảnh Hưng (1786) và 7 đạo triều Nguyễn. Ngoài ra đình còn có nhiều hoành phi, câu đối có giá trị ca ngợi công đức các vị thành hoàng.
Lễ hội đình Thượng Cát được tổ chức ngày mùng 10 đến 12 tháng Ba (âm lịch) hàng năm. Lễ hội tổ chức nhằm tưởng nhớ công đực của 3 vị anh hùng Quách Lãng, Đinh Bạch Nương, Đinh Tĩnh Nương. Qua đó giáo dục truyền thống đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” của nhân dân ta.
Đình Thượng Cát còn là di tích CMKC trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
5. Chùa Kỳ Vũ: được xây dựng vào năm Vĩnh Tộ thứ 2 (1620) theo tâm sbia “Kỳ Vũ Tự Phật bi đề danh ký”. Chùa Kỳ Vũ được xây dựng theo bố cụ “Tiền thần, hậu Phật”, dạng thức phổ biến các di tích tôn giáo thời Lý - Trần.
Chùa Kỳ Vũ có quy mô kiến trúc lớn với nhiều lớp ngang dọc. Chùa còn lưu giữ hệ thống tượng tròn có 51 pho tượng có giá trị nghệ thuật cao, các pho tượng được gia công tỉ mỉ, công phu. Nổi bật là các pho tượng mang phong cách thế kỷ XVIII, XIX như Tam Thế, A Di Đà, Di Lặc, Tứ Bồ Tát, Quan Âm Nam Hải…Hơn 50 pho tượng còn lưu giữ đã khiến cho ngôi chùa thành nơ trưng bày hệ thống tượng Phật có giá trị về nghệ thuật điêu khắc Việt Nam ở hai thờ kỳ cuối Lê - Nguyễn. Đặc biệt chùa còn có một chuông đồng niên hiệu Thịnh Đức thứ 3 (1655). Chuông Thinh Đức là một di vật quý hiếm ở nước ta. Chùa còn lưu giữ một di vật có niên đại sớm hơn đó là tấm bia niên hiệu Vĩnh Tộ thứ 2 (1620) ghi việc xây dựng chùa, bốn tấm bia hậu có niên đại thời Nguyễn, một khánh đồng thời Minh Mệnh (1822).
Chàu Kỳ Vũ còn là một trong những di tích cách mạng kháng chiến trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
6. Lễ hội giao hiếu thôn Phú Mỹ (xã Mỹ Đình) và thôn Kiều Mai (xã Phú Diễn) (nay là Tổ dân phố Phú Mỹ, phường Mỹ Đình I và Tổ dân phố Kiều Mai, phường Phúc Diễn).
Thần tích và phong tục hai làng truyền lại, vào ngày mồng 7/Giêng làng Kiều Mai rước thành hoàng Bạch Hạc Tam Giang - Đào Trường xuống Phú Mỹ, còn ngày 20/2 làng Phú Mỹ rước thành hoàng là Ả Lã và Quốc Công (khởi nghĩa Hai Bà Trưng) xuống Kiều Mai dự hội.
Lễ hội Phú Mỹ - Kiều Mai có nhiều trò chơi dân gian, đặc biệt lễ hội Chạ vùng này có nhiều phong tục độc đáo như: Tuyển ca nương hát ca trù ở hội (làng Phú Mỹ) để đi thi các hội ở vùng Từ Liêm, tục thi cây xôi ở giáp Đông, giáp Đoài (làng Kiều Mai)…Ca dao cổ có câu “Hội làng Phú Mỹ, Kiều Mai - Tháng Giêng em đến tháng Hai chị về”. Tục kết chạ này nay vẫn được bảo tồn, trở thành nét đẹp văn hóa Thăng Long bên bờ sông Nhuệ.
Ngoài di tích lịch sử văn hóa, trên địa bàn quận còn có di tích cách mạng kháng chiến như: Pháo đài Xuân Tảo, Trận địa tên lửa Chèm, Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm công trình thủy lợi Thụy Phương, cở sở cách mạng kháng chiến gia đình bà Phạm Thị Thiềm, Gia đình ông Đinh Văn Viết, gia đình Bà Đàm Thị Nghiên và ông Nguyễn Văn Khung…
* Một số làng nghề tiêu biểu:
Bắc Từ Liêm còn được biết đến với các làng nghề truyền thống như: Nghề may Cổ Nhuế; nghề bánh mứt kẹo Xuân Đỉnh; nghề làm Giò Chèm xã Thụy Phương; nghề làm đậu phụ, bánh chưng, bánh tẻ xã Thượng Cát, nghề trồng hoa xã Tây Tựu, làng nghề sinh vật cảnh xã Đông Ngạc…
1. Làng trồng hoa Tây Tựu:
Tây Tựu trước năm 1995 là một xã thuần nông. Nhân dân có truyền thống trồng lúa, trồng râu xanh, ray quả trái vụ và gia vị. Tuy nhiên thị trường đã chuyển hướng khác, người dân Tây Tựu từ trồng lúa, rau chuyển sang trồng hoa. Ngày nay, về Tây Tựu thấy cả một cánh đồng rộng lớn trồng hoa với hơn 40 chủng loại khác nhau. Từ đó đời sống nhân dân ngày càng nâng cao, Giờ đây, chợ đầu làng đã trở thành khu chợ đầu mối lớn, khi mùa hoa số lượng khách đến đặt hàng rất đông. Nghề trồng hoa Tây Tựu đã có thương hiệu riêng và có chỗ đứng nhất định trong thành phố mỗi khi nhắc đến làng hoa Tây Tựu.
2. Làng sinh vật cảnh xã Đông Ngạc:
Đông Ngạc thuộc quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội. Là xã ven đô nằm cạnh sông Hồng ở phía Tây thành phố với tổng diện tích đất tự nhiên: 361 ha, diện tích đất sản xuất nông nghiệp: 69.2 ha. Người dân xã Đông Ngạc hiếu học, tần tảo, cần cù trong lao động sản xuất.
Đầu những năm 90, được sự quan tâm của Đảng và chính quyền địa phương, Hội VAC và SVC phường Đông Ngạc được thành lập. Từ khi ra đời Hội đã chủ động phối hợp cùng với các ban ngành đoàn thể vận động hội viên và nhân dân chuyển dịch cơ cấu cây trồng phát triển kinh tế và làm đẹp cảnh quan môi trường. Nâng cao kiến thức hội viên và nhân dân bằng việc tổ chức tham quan, mở lớp đào tạo nghề, mời chuyên gia, nghệ nhân về giảng dạy. Giúp đỡ hội viên và nhân dân tiêu thụ sản phẩm như tham gia hội chợ triển lãm trưng bày, quảng bá tuyên truyền. Động viên nhân dân tích cực, nâng cao chất lượng sản phẩm thông qua các phong trào, các hội thi: Phòng trào “nhà nhà chơi SVC”, hội thi “vườn quất, vườn cảnh đẹp” đã trở thành truyền thống được tổ chức hàng năm.
Với những hoạt động đồng bộ thường xuyên và liên tục đã mang lại hiệu quả 90 % đất nông nghiệp từ trồng lúa được chuyển sang trồng hoa và cây cảnh; 99% hộ dân trên địa bàn xã đều có sản phẩm SVC. Các sản phẩm chủ yếu như: đào, quất, cây cảnh công trình, cây cảnh nghệ thuật, hoa phong lan, địa lan cũng rất phong phú và đa dạng về chủng loại. Đời sống nhân dân ngày càng được nâng cao, cảnh quan môi trường bộ mặt địa phương thay đổi. Nghề SVC ngày càng phát triển đã góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân phường Đông Ngạc nói riêng và xây dựng quê hương Bắc Từ Liêm phát triển giàu mạnh nói chung.
3. Làng nghề bánh mứt kẹo xã Xuân Đỉnh:
Làng nghề truyền thống sản xuất bánh mứt kẹo phường Xuân Đỉnh có nguồn gốc từ trên 70 năm qua. Trước Cách mạng tháng 8-1945, ở Xuân Đỉnh đã có 1 số người đi làm thuê cho những cửa hàng sản xuất và bán bánh Trung thu, mứt tết trong nội thành rồi trở thành những người thợ lành nghề. Dần dần, những người thợ này lại truyền nghề cho anh em trong gia đình và bạn bè, hàng xóm. Trong những năm 50, 60 của thế kỷ trước, ở Xuân Đỉnh đã có rất nhiều gia đình sản xuất bánh Trung thu và mứt tết, nhưng khi đó làm rất ít, chủ yếu là để phục vụ trong gia đình và làm quà biếu những người thân. Làng nghề sản xuất bánh mứt kẹo Xuân Đỉnh thực sự phát triển mạnh mẽ từ sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng (1975) với tính chất hàng hóa. Thời gian nở rộ nhất, ở Xuân Đỉnh có trên 200 gia đình sản xuất bánh mứt kẹo. Từ chỗ chỉ sản xuất bánh Trung thu vào dịp tết Trung thu và mứt tết vào dịp Tết nguyên đán đến chỗ sản xuất đa dạng các loại bánh, kẹo như: oản bột, bánh khảo, bánh cắt, bánh chả, bánh cốm, kẹo lạc, kẹo vừng… và nhiều gia đình sản xuất quanh năm. Bình quân mỗi năm, các gia đình ở xã Xuân Đỉnh sản xuất khoảng 700 tấn bánh, mứt, kẹo các loại, tập trung nhiều nhất là vào dịp Tết trung thu và Tết nguyên đán, cung cấp cho thị trường Hà Nội và nhiều Tỉnh ở khu vực phía bắc.
Các loại bánh, mứt, kẹo ở Xuân Đỉnh rất đa dạng về chủng loại, hình thức, có chất lượng thơm ngon, giá cả hợp lý nên rất được thị trường ưa chuộng. Nhờ đó đời sống người dân ngày càng được cải thiện, chất lượng cuộc sống ngày càng nâng cao
4. Nghề làm Giò, chả xã Thụy Phương:
Giò Chèm – đặc sản của đất Thăng Long Hà Nội đã được dân gian nhắc đến từ lâu: Giò Chèm, nem Vẽ hay “Giò Chèm ai gói xinh xinh. Nắm nem làng Vẽ đậm tình nước non”.
Nằm cách trung tâm thủ đô 12 cây số về phía Tây, làng Chèm thuộc phường Thụy Phương, quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội từ xa xưa đã nổi tiếng với nghề làm giò. Theo sử sách ghi lại, cùng lời kể của các cụ cao niên trong làng thì nghề làm giò chả xuất hiện tại làng Chèm từ thế kỉ 10. Sự nổi tiếng còn được khẳng định vào thời vua Tự Đức khi làng có cụ Phác, người được vào kinh làm giò tiến vua. Món giò chả của cụ đã chinh phục được nhà vua và được vua ban cho nhiều bổng lộc. Để làm ra những chiếc bánh giò như thế này thì cách chế biến giò đòi hỏi khá cầu kỳ và phức tạp thể hiện ở khâu chọn thịt, giã giò cùng cái tâm trong sạch của người làm giò. Khâu pha chế gia vị, gói và luộc cũng rất quan trọng đòi hỏi người làm phải có bí quyết nghề nghiệp nếu không giò chẳng ra giò, chả chẳng ra chả.
Giò Chèm không chỉ là món ăn đặc sản của chốn kinh thành Thăng Long xưa mà giờ đây khi đến với Thụy Phương không ai có thể quên được món ẩm thực nức lòng người này nếu một lần được thưởng thức. Miếng giò thơm ngon, thanh đạm khi ăn kèm với cơm tám, cơm nắm hay bánh dày thì sẽ rất ngon, khi ấy ta có thể cảm nhận được hương vị đậm đà cũng như sự khéo léo do chính bàn tay người dân Thụy Phương cần cù mà chất phác làm nên. Câu ca:
“Giò Chèm ai gói xinh xinh
Nắm nem làng Vẽ đậm tình nước non” đã khẳng định tinh hoa văn hóa ẩm thực đất Thăng Long xưa.
5. Nghề làm giò, chả, bánh chưng, bánh tẻ xã Thượng Cát:
Thượng Cát thuộc quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội. Xưa kia nằm trong vùng rừng rậm sống chủ yếu vào nghề làm ruộng. Ngày nay, cùng với sự phát triển của xã hội làng quê Thượng Cát đã thay da đổi thịt. Cùng với đó các sản phẩm ẩm thực và nhu cầu thưởng thúc ẩm thực của nhân dân cũng đa dạng và phong phú hơn rất nhiều. Cùng với tinh hoa văn hóa ẩm thực của người Hà Nội, người dân Thượng Cát đã biết chọn lọc và kế thừa từ văn hóa ẩm thực cổ truyền của cha ông. Nói đến ẩm thực Thượng Cát là người ta nghĩ ngay đến bánh đúc, bánh chưng, bánh tẻ, giò, chả…..Đây là những món ăn dân giã quen thuộc không thể thiếu trong mỗi gia đình. Và chính những đặc sản ấy đã trở thành một nghề truyền thống của phường Thượng Cát.
a. Nghề làm bánh chưng:
“Thịt mỡ dưa hành câu đối đỏ. Cây nêu tràng pháo bánh chưng xanh” từ bao đời nay đã in sâu vào tâm hồn mỗi người dân Việt Nam mỗi độ xuân về. Nghề bánh chưng đã có từ rất lâu, bánh chưng Thượng Cát tuy chưa nổi tiếng và có được thương hiệu riêng như các làng nghề bánh chưng khác nhưng nhiều người nhất là các vùng lân cận thường tìm đến Thượng Cát để đặt bánh chưng vì bánh chưng Thượng Cát ăn ngon và sạch sẽ giá lại rất rẻ. Để làm ra được những chiếc bánh chưng ngon phải rất cầu kỳ từ khâu chọn lá, chọn gạo, chọn đỗ. Việc chọn số lượng lá để gói cũng cần phải xem thời tiết. Nếu thời tiết thuận, lạnh thì chỉ cần gói 6 lá. Nhưng những khi trời nồm, nóng thì phải gói dầy lá có khi lên đến 10 lá. Như vậy việc bảo quản bánh sẽ tốt hơn nhiều. Khâu luộc bánh cũng rất quan trọng để làm nên những chiếc bánh thơm ngon. Bánh chưng Thượng Cát gói cần khuôn mà gói trực tiếp bằng tay, cầm cái bánh rất chắc mà vẫn vuông thành sắc cạnh thể hiện sự khéo léo của người dân Thượng Cát.
b. Bánh tẻ Thượng Cát:
Bánh tẻ là một trong những loại bánh truyền thống đã gắn bó với người dân Thượng Cát từ bao đời nay và đã trở thành món ăn truyền thống mang đậm nét văn hóa ẩm thực vùng đồng bằng Bắc Bộ. Bánh tẻ Thượng Cát tuy không nổi tiếng và chưa có thương hiệu nhưng ai một lần thưởng thức đều tâm đắc khen ngon. Nghề làm bánh tẻ đã trải qua bao thế hệ, gìn giữ và ngày càng được nhiều người gần xa biết đến. Nói đến bánh tẻ chắc hẳn ai cũng biết và ít nhất là một lần được thưởng thức. Tuy nhiên, để làm nên những chiếc bánh tẻ thơm ngon như thế này thì cần phải có những bí quyết gia truyền từ việc chọn gạo, lá, nhân bánh đến công đoạn nấu dáo bột…
Gia đình chị Vũ Thị Thanh là một trong những nhà làm bánh có tiếng ở thôn Đông Ba. Mỗi dịp lễ tết hay mua cưới, khách đến đặt hàng rất đông. Điều đó đã phần nào khẳng định bánh tẻ Thượng Cát là món ăn được rất nhiều người ưu chuộng và biết đến. Nghề truyền thống làm bánh tẻ ngày càng phát triển tạo thêm được nhiều việc làm cho người lao động nơi đây.
c. Nghề làm giò, chả gia truyền:
Nghề làm giò chả xã Thượng Cát có từ lâu đời, đã trở thành nghề truyền thống và là niềm tự hào của người dân địa phương. Giò chả Thượng Cát được nhiều người biết đến và ưa chuộng bởi nguyên liệu được chọn lựa cẩn thận, các công đoạn chế bến công phu mà lại sạch sẽ, an toàn VSTP cùng với bí quyết gia truyền. Vào những ngày giáp Tết, giò chả Thượng Cát được tiêu thụ rất nhiều, khách hàng đến đặt giò để dùng hay làm qùa biếu cho bạn bè, người thân. Mỗi làng nghề đều có những bí quyết riêng trong cách chế biến giò. Đối với giò chả Thượng Cát thì khâu chọn thịt, giã giò đến khâu chọn lá gói giò, nấu giò đều quan trọng. Nếu không cẩn thận trong từng khâu thì sẽ làm ảnh hưởng đến tất cả các công đoạn chế biến. Giò Thượng Cát rất phong phú và đa dạng, không chỉ có giò lụa, người dân Thượng Cát còn chế biến thêm món giò bò, giò tai hay giò pha….
Chả cùng là món ăn đặc sản của Thượng Cát. Chả có nhiều món khác nhau như chả nạc rán, chả quế…Nếu ai đó đã từng thưởng thức cái vị ngọt, mềm mà giòn thơm của khoanh giò Thượng Cát, vị ngọt bùi của chả thì khó lòng mà quên được